GDP và GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay (Hình từ Internet)

So sánh GDP bình quân đầu người của Việt Nam với các nước khác

Năm 2021, Việt Nam đứng thứ 41 trong số 50 nền kinh tế lớn nhất thế giới và thứ 5 tại Đông Nam Á về quy mô GDP. GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 3.743 USD, đứng thứ 6 trong khu vực và thứ 124 toàn cầu. Trong khi đó, Singapore dẫn đầu Đông Nam Á với khoảng 66.263 USD, xếp thứ 8 thế giới.

Vào năm 2002, GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ là 547 USD, xếp thứ 160/195 toàn cầu. Đến năm 2021, con số này đã tăng lên 3.743 USD, gấp 3,7 lần so với 19 năm trước.

Việt Nam đang tập trung vào phát triển kinh tế bền vững và cải thiện chất lượng cuộc sống. Đến năm 2030, nước này hướng tới mục tiêu đạt GDP bình quân đầu người khoảng 7.500 USD và trở thành quốc gia công nghiệp hiện đại với thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, mục tiêu là trở thành quốc gia phát triển và có thu nhập cao.

Việt Nam là một quốc gia có chỉ số GDP tăng trưởng đều, ổn định. Điều này thể hiện sự phát triển kinh tế của cả nước và mức sống của người dân ngày một nâng cao. Thông qua chỉ số GDP qua các năm sẽ giúp chúng ta biết được những chiến lược kinh tế mà chính phủ đề ra đã đạt hiệu quả và đang từng bước đưa Việt Nam phát triển không ngừng.

Trong bài viết phân tích toàn diện về thu nhập bình quân đầu người (GDP bình quân đầu người) của Việt Nam đăng ngày 23/11, Forbes cho biết nền kinh tế thế giới đã trải qua giai đoạn khó khăn kể từ khi đại dịch bùng phát. Nhưng trong bối cảnh gián đoạn về kinh tế, nhiều nước vẫn ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng về thu nhập bình quân đầu người từ năm 2020 đến năm 2021, trong đó, Forbes đặc biệt nhấn mạnh đến Việt Nam.

Dẫn dữ liệu mới nhất từ Ngân hàng Thế giới, Forbes cho biết GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2021 là 3.694,02 USD. Con số này tăng so với mức 3.425,09 USD năm 2019 - năm trước đại dịch và 3.526,27 USD trong năm 2020.

"Việt Nam là một trong số ít quốc gia vượt qua những tác động về kinh tế của đại dịch khá tốt", Forbes đánh giá và cho rằng thực tế GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng mạnh kể từ năm 2005.

Theo tạp chí này, từ năm 2019 đến năm 2020, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 2,01%, chậm hơn so với mức 6,13% trong giai đoạn 2018-2019, tuy nhiên, mức tăng này vẫn tích cực.

Còn nếu xét tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người giai đoạn 2020-2021 thì tỷ lệ tăng trưởng là 1,76% nếu tính theo giá trị đồng nội tệ và 4,76% nếu sử dụng giá trị bằng đồng USD.

Dựa trên giá trị đồng USD, từ năm 2006 đến năm 2021, tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam lên đến gần 371%. Thực tế, tăng trưởng ở mức 371% nghĩa là GDP bình quân đầu người Việt Nam tăng gần gấp 5 lần. Tuy nhiên, Forbes cho rằng, mức tăng ấn tượng này sẽ có ý nghĩa hơn khi xem xét cả quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này.

Sử dụng dữ liệu từ Đài quan sát Phức hợp Kinh tế (OEC), Forbes đã phân tích nền kinh tế Việt Nam đã thay đổi ra sao trong 15 năm qua.

Trở lại với năm 2006, sản phẩm xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là dầu thô, chiếm 16,9% kim ngạch xuất khẩu, tương đương 7,72 tỷ USD. Nhưng đến năm 2020, xuất khẩu dầu thô chỉ còn chiếm 0,54% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tương ứng 1,64 tỷ USD.

Thay vào đó, thiết bị phát thanh truyền hình trở thành sản phẩm xuất khẩu lớn nhất, chiếm 14% tổng kim ngạch, đạt 42 tỷ USD. Xuất khẩu điện thoại đứng thứ 2, chiếm 7,14% tổng kim ngạch xuất khẩu, tương đương 21,4 tỷ USD. Xuất khẩu linh kiện điện tử đứng thứ 3, chiếm 6,48% tổng kim ngạch, tương đương 19,4 tỷ USD. Cả 3 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu này đều thuộc danh mục máy móc thiết bị và hiện là lĩnh vực xuất khẩu lớn nhất trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam.

Sự tương phản giữa bức tranh xuất khẩu của Việt Nam năm 2020 và năm 2006 rất rõ ràng. Nếu như năm 2006, thiết bị phát thanh truyền hình chỉ chiếm 0,09% tổng xuất khẩu, với chỉ vỏn vẹn 41 triệu USD, thì con số này năm 2020 là 42 tỷ USD.

Các thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam cũng đã phát triển rõ rệt kể từ năm 2006. Năm 2006, Mỹ là thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, chiếm 19,8% tổng giá trị xuất khẩu, tương đương 9,02 tỷ USD. Đến năm 2020, Mỹ vẫn nằm trong những thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, nhưng tỷ lệ đã tăng lên chiếm 25,6% tổng kim ngạch xuất khẩu (tương đương 77 tỷ USD).

Một số thị trường xuất khẩu khác như Trung Quốc cũng đã tăng đáng kể. Nếu như năm 2006, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chiếm 5,74% tổng giá trị kim ngạch (tương ứng 2,62 tỷ USD) thì đến năm 2020, Trung Quốc đã vươn lên vị trí thứ 2 trong các thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam với 16,5% tổng giá trị kim ngạch (tương đương 49,4 tỷ USD).

Tuy nhiên, xuất khẩu Nhật Bản lại sụt giảm. Nếu năm 2006, xuất khẩu sang Nhật Bản chiếm 12,4% (tương đương 5,68 tỷ USD) thì đến năm 2020 chỉ còn 6,79% tổng kim ngạch. Tương tự xuất khẩu sang Australia cũng giảm mạnh, từ 8,32% năm 2006 xuống còn 1,35% năm 2020.

Trong 10 năm qua, từ năm 2010-2020, Mỹ là thị trường xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhất của Việt Nam, với giá trị xuất khẩu tăng 62,3 tỷ USD, tương đương tăng 424%. Thị trường xuất khẩu tăng nhanh thứ 2 là Trung Quốc khi tăng 42,7 tỷ USD, nhưng xét về mức tăng phần trăm là 631%. Đứng thứ 3 là Hàn Quốc, trong 10 năm qua, xuất khẩu sang thị trường này đã tăng 16,4 tỷ USD, tương đương mức tăng 503%.

Forbes cho rằng, tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam phần lớn là do nền kinh tế Việt Nam ngày càng đa dạng. Theo OEC, trong 20 năm qua, Việt Nam đã tăng từ vị trí 83 lên vị trí 61 trong bảng xếp hạng Chỉ số Phức hợp Kinh tế (ECI), chỉ số đánh giá sự đa dạng và tinh vi về năng lực sản xuất thể hiện trong hàng hóa xuất khẩu của mỗi quốc gia.

Xếp hạng mức độ phức tạp về kinh tế của Việt Nam tốt hơn nhiều so với các nước láng giềng như Campuchia (xếp thứ 102) hay Lào (104). Năm 2017, mức độ phức tạp về kinh tế của Việt Nam cũng đã vượt qua Indonesia và duy trì ở trên kể từ đó.

Thậm chí khi phân tích GDP bình quân đầu người của Việt Nam theo giá trị đồng USD năm 2015, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam vẫn rất ấn tượng. Tính theo giá trị đồng USD năm 2015, GDP bình quân đầu người năm 2006 của Việt Nam là 1.650,63 USD thì năm 2021 là 3.373,08 USD, tương đương tăng 104,4% trong 15 năm.

"Nhìn chung Việt Nam có tăng trưởng GDP bình quân đầu người ấn tượng nhất trong các quốc gia trên thế giới. Xu hướng này phản ánh sự năng động của nền kinh tế Việt Nam và sự phát triển vượt bậc của nước này trong những năm qua", Forbes đánh giá.

GDP bình quân đầu người của Việt Nam giai đoạn 1990 – 2000

Trong giai đoạn 1990 - 2000, GDP bình quân đầu người của Việt Nam có sự tăng trưởng ổn định từ mức 121,72 USD lên 358,66 USD vào năm 1995 và lên đến 498,58 USD vào cuối năm 2000. Sự gia tăng này phản ánh quá trình đổi mới kinh tế, cải cách thị trường và mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, giúp nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống của người dân.

Giai đoạn 1991-1995 GDP bình quân tăng 8,2%/năm. Trong giai đoạn 1996-2000, mặc dù đối mặt với khủng hoảng tài chính khu vực và thiên tai nghiêm trọng, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7%. Trung bình từ năm 1991-2000, GDP tăng trưởng 7,6% mỗi năm.

Đến năm 2000, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 498,58 USD, đứng thứ 7 trong 11 quốc gia Đông Nam Á và xếp thứ 173 trong số 200 quốc gia trên thế giới.